Kỹ thuật nuôi lươn thương phẩm trên bể không bùn bằng giống nhân tạo và thức ăn viên
Hình thức nuôi lươn hiệu quả và phổ biến hiện nay là nuôi trên bể không bùn bằng giống nhân tạo và sử dụng thức ăn viên. Hình thức nuôi này có ưu điểm: Cỡ giống đồng đều, chất lượng giống ổn định, sử dụng được thức ăn viên giúp cho tỷ lệ sống cao và thuận lợi trong quá trình nuôi; đặc biệt mô hình này ít tốn diện tích phù hợp cho hộ ít đất sản xuất, phù hợp cả nơi đô thị, ít tốn thời gian, dễ áp dụng kỹ thuật, cho thu nhập cao.
Xem video
Bể nuôi là bể xi măng, bể lót bạt và có thể tận dụng chuồng heo cũ để nuôi. Lươn có thể dựng thân vào thành bể để ngoi lên bò ra ngoài, nên bể cần có đủ độ cao để tránh lươn bị thất thoát. Bể có hình chữ nhật hoặc hình vuông,chiều rộng 1,0 – 2m và chiều dài 2 – 5m chiều cao 60 cm. Để tiết kiệm diện tích xây dựng và dễ quản lý, nên thiết kế khu nuôi thành nhiều bể liên tiếp. Thành và đáy bể cần làm bằng các vật liệu trơn láng. Mặt đáy cần bằng phẳng và nghiêng về phía ống thoát nước. Toàn bộ hệ thống nuôi được che bởi mái che nhằm hạn chế nước mưa và ánh nắng chiếu trực tiếp vào bể tuy nhiên cũng để thông thoáng có chút ánh nắng sẽ tốt hơn.nhưng không quá nhiều sẽ làm nhiệt độ nước tăng cao ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lươn. Ống cấp nước: Nối thông với nguồn nước cấp, đặt bằng hoặc cao hơn mặt bể. Ống thoát nước nên âm dưới mặt đất và dùng ống to để thoát nước nhanh hơn.
Nguồn nước nuôi lươn có thể nuôi lươn bằng nước giếng, nước sông, nước máy nguồn nước nuôi lươn rất quan trọng: nên cần phải kiểm tra độ pH trước khi nuôi độ pH dùng để nuôi lươn từ 6.5 đến 8.0
Vĩ tre: Tre (hay tầm vông) cắt thành từng đoạn gần bằng chiều dài bể (để nguyên hoặc chẻ ra tùy cỡ cây) và bào gọt thật láng. Sau đó đóng đinh hoặc dùng dây buộc chặt thành những tấm vĩ, mỗi cây cách nhau 4 – 6 cm. Diện tích các tấm vĩ bằng 60 – 70% diện tích bể. Cần chú ý các vị trí đóng đinh tránh dùng đinh quá dài bị nhô ra có thể làm lươn bị sây sát. Vĩ tre cần phơi khô trước khi sử dụng. Mỗi bể đặt 2 – 3 vĩ, có thể kê một cục gạch bốn lỗ phía dưới rồi để tắm vĩ tre lên sau đó để một lớp dây kế tiếp một cục gạch để dằn ở trên và để tiếp một vỉ lên trên và dùng bốn cục gạch để phía bên trên đè lên tấm vĩ trên cùng đó là dùng cho lươn con, hoặc cũng có thể dùng lưới làm nơi trú ẩn cho lươn con. Mực nước thấp hơn mặt vĩ tre 1cm để khi rải thức ăn lên thức ăn không bị trôi. Cũng có thể dùng: Dây ni lông: cột lại thành nhiều bó. Bố trí cây đòn gác ngang trên thành bể. Một đầu bó ni lông cột vào cây đòn, một đầu thả tự do vào bể. Những búi sợi ni lông trong bể sẽ đóng vai trò như tổ của lươn. Ngoài dây nylon chúng ta cũng có thể dùng lưới loại sợi mỏng lỗ thưa sẽ dễ vệ sinh hơn. Sàng ăn là khung hình chữ nhật làm bằng tre hoặc ống nước, rải thức ăn vào bên trong khung để dễ quản lý thức ăn. * Chọn và thả giống: Nên chọn mua con giống nhân tạo ở các cơ sở sản xuất có uy tín, con giống có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, có màu vàng đặc trưng của lươn ,bơi nhanh nhẹn, da không bị trầy xước, mất nhớt.Người mới chưa có kinh nghiệm nên chọn nuôi size từ 300 hoặc 500 sẽ hiệu quả hơn,không nên nuôi nhỏ hơn.Đặc biệt lươn giống nhân tạo này đã được thuần bằng thức ăn viên. Do nguồn lươn giống bán nhân tạo có kích cỡ nhỏ một mét vuông có thể nuôi 1000 con lúc nhỏ không nên nuôi thưa quá sẽ không hiệu quả .Mỗi tháng nên tách bầy một lần và sang dần qua những bể khác đến khi lớn. Mật độ nuôi thương phẩm có thể nuôi từ 200 đến 500 con một mét vuông.
Trước khi thả lươn giống vào bể nuôi, cần phải thuần nước trước từ 30 phút đến một tiếng rồi mới thả vào bể nuôi.Cần kiểm tra kỹ, nếu phát hiện những con bị bệnh hay yếu, lờ đờ, xây sát thì phải loại ra. Ngày thứ nhất sau khi bố trí lươn vào bể nuôi dưỡng không nên cho ăn để lươn ổn định. Từ ngày thứ 2 trở đi bắt đầu cho lươn ăn mỗi ngày một lần, để lươn quen với môi trường mới, sau 2 tuần mỗi ngày cho ăn hai lần buổi sáng và chiều, ngày ăn hai lần và thay nước cũng hai lần.Để tăng cường sức đề kháng và khả năng chống chịu với bệnh. Khẩu phần ăn bằng 1 – 3% trọng lượng cơ thể.Thức ăn rải trong sàng ăn để dễ quản lý thức ăn. Cần quan sát và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Thức ăn dành cho cá trê hoặc cá chẽm hàm lượng đạm 40 – 44%, mỗi ngày cho lươn ăn 2 lần, thời gian cho lươn ăn buổi sáng và buổi chiều. Trong giai đoạn nuôi dưỡng này nên thay nước toàn bộ hàng ngày và vệ sinh bể nuôi để kích thích lươn bắt mồi. Sau 1 đến 2 tháng nuôi dưỡng lươn đạt cỡ giống lớn thì tiến hành phân cỡ và san bể nuôi để lươn trong mỗi bể có kích cỡ đồng đều. Do lươn có tập tính ăn lẫn nhau, nên khoảng 1 tháng nuôi hoặc thấy lươn có phân đàn cần tiến hành phân cỡ ra nuôi riêng để hạn chế lươn hao hụt. Trước khi phân cỡ cho lươn nhịn ăn 1 ngày, dùng sàng trơn láng để phân loại cỡ lươn và dùng vợt để bắt lươn. * Chăm sóc, quản lý: Mực nước trong bể nuôi từ 10 – 30 cm (vừa ngập các giá thể), không cần cho nhiều. Thay nước: Thay 100% lượng nước trong bể trước khi cho ăn hoặc sau khi cho ăn 4 đến 6 tiếng , tùy vào mật độ nuôi dày hay thưa mà tùy chỉnh thời gian thay nước.Nhiệt độ nước mới và nước cũ không chênh lệch quá 3°C. Khi thay nước phải kết hợp xịt rửa vệ sinh và quan sát thấy lươn có dấu hiệu bệnh nên bắt và tách riêng lươn bệnh ra thau hoặc thùng để điều trị tránh bị lây lan mầm bệnh. Sau đó bơm nước mới vào và duy trì mực nước cố định. Lươn nuôi với mật độ dày, điều kiện môi trường rất dễ bị ô nhiễm thì lươn cũng dễ mắc một số bệnh. Khi đã mắc bệnh thì khả năng lây lan là rất nhanh. Do đó, việc giữ vệ sinh cho khu vực nuôi, đặc biệt là nguồn nước phải hết sức chú ý.
Xem video tại đây:
Nhằm giúp cho lươn phát triển tốt,thường xuyên bổ sung thêm men tiêu hóa, Vitamin C và các khoáng chất cần thiết để tăng sức đề kháng và phòng bệnh cho lươn. Định kỳ: sổ giun sán cho lươn. Đặc tính của lươn là ăn vào ban đêm, cho nên buổi chiều tối cho ăn lươn sẽ ăn nhiều hơn là ban ngày buổi sáng. Khi rãi thức ăn nếu thấy hiện tượng lươn bắt mồi kém, âm thanh bắt mồi của lươn rời rạc. Lươn bò rải rác trong bể mà không nằm trú ẩn trong giá thể (vĩ tre, sợi ni lông). Các đặc điểm này đồng thời xuất hiện là dấu hiệu cho biết lươn nuôi có triệu chứng bệnh. Khi phát hiện lươn bệnh thì phải ngừng cho ăn, thay nước mới, sử dụng nước muối có hàm lượng 3 – 5% hoặc Iodine tắm cho lươn và theo dõi kỹ đàn lươn để có biện pháp xử lý kịp thời. * Thu hoạch: Sau thời gian nuôi, khi lươn đạt kích cỡ thương phẩm thì tiến hành thu hoạch, trước khi thu hoạch nên cho lươn nhịn ăn 1 ngày. Thông thường, cỡ lươn giống thả từ 100 – 300 con/kg, thời gian nuôi từ 8 – 10 tháng lươn có thể đạt được 3 đến 5con/ kg . Cỡ lươn thả 300 – 500 con/kg thời gian nuôi từ 10 – 12 tháng đạt cỡ 3 đến 5con/kg Năng suất: Tùy theo mật độ nuôi lươn, năng suất có thể đạt từ 30 – 50kg/m2/vụ (mật độ 300 con/m2), năng suất có thể tăng gấp đôi nếu nuôi mật độ cao. Sau khi thu hoạch cần vệ sinh sát khuẩn lại bể sạch sẽ để chuẩn bị nuôi vụ tiếp theo.